Bài viết: 1 Có Thể Bạn Chưa Biết 12/25/2012, 10:02
Tiger86
Năm
1419, sau thắng lợi của quân ta ở đồng Nga Lạc, địch tập trung lực
lượng hùng hậu để phản công, Nghĩa quân Lam Sơn phải rút về núi Chí Linh
lần thứ hai.Tại đây, quân Minh quyết bao vây tiêu diệt quân khởi nghĩa.
Trước
tình hình đó, Lê Lợi hỏi: “Ai dám đổi áo thay ta bắt chước Kỷ Tín đời
Hán không?”. Các tướng im lặng, Lê Lai đứng dậy nói: “Tôi xin đi, sau
này giành lại giang sơn con cháu tôi muôn đời sẽ được nhờ ơn nước. Đó là
nguyện vọng cuối cùng của tôi”.
Lê Lợi vái trời, khấn: “ Lê Lai có công đổi áo, sau này tôi, con cháu
tôi và con cháu các bậc trung thần nếu không nhớ đến công lao này thì
cung điện biến thành rừng núi, ấn báu biến thành cục đồng, gươm thần
biến thành dao cùn”.
Lê Lai ứa nước mắt vái tạ rồi dẫn 500 quân xông trận và thét lớn: "Chúa
Lam Sơn là ta đây. Ta quyết cùng các ngươi một trận sống mái để thử tài
cao thấp”.
Với khí phách của người anh hùng quyết tử vì đại nghĩa, lưỡi gươm của
Lê Lai và đoàn dũng sĩ vung đến đây, đầu kẻ thù rơi đến đó. Nhưng quân
giặc đông hơn quân ta hàng chục lần nên sau một ngày chiến đấu, Lê Lai
đã rơi vào tay giặc. Tưởng bắt được chủ tướng, chúng hý hửng về Tây Đô,
nhờ thế Lê Lợi thoát vòng vây để tiếp tục giương cao ngọn cờ đại nghĩa.
Biết mắc mưu của nghĩa quân, kẻ thù đã thủ tiêu Lê Lai.
Cảm động trước tấm lòng trung nghĩa của ông, Lê Lợi cho người tìm kiếm
rất công phu vàg đưa thi hài của ông về an táng tại Lam Sơn và ba người
con của ông là Lê Lư, Lê Lô và Lê Lâm được Lê Lợi chăm sóc như con đẻ
của mình.
Vẫn chưa yên tâm với người đã khuất, khi lâm bệnh, ông gọi con trai là
vua Lê Thái Tông (tức Lê Nguyên Long) đến bên giường bệnh và dặn rằng:
Ta biết bệnh ta khó phương cứu chữa, âu cũng là do mệnh trời. Việc chăm
lo trăm họ ta đã nói rõ trong tờ sắc khi giao ngôi báu cho con. Còn điều
này con phải ghi nhớ: Ta sống và có sự nghiệp như ngày nay là nhờ có Lê
Lai, nhưng ngày mất của ông ta không biết. Nếu sau nay các con giỗ ta
ngày nào thì trước ngày đó phải cúng cho Lê Lai”.
Năm hôm sau vua băng hà vào ngày 22-8 năm giáp Dần (1434), thọ 49 tuổi.
Từ đó trở đi ngày 21- 8 âm lịch là ngày giỗ của Lê Lai từ năm 1435 xuất
hiện câu “Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi”.
Lê Lợi, vị anh hùng dân tộc đã nêu cao đạo lý truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”. Tấm gương ấy vạn thuở không mờ.
Lê Lai cứu chúa
Vẫn
biết lúc xông pha trận mạc, thật khó có thể bảo trọng tấm thân, nhưng
đi vào chỗ mà cái chết chỉ còn cách mình trong gang tấc, cổ kim nào có
được mấy người! Khí phách và lòng trung nghĩa của Lê Lai, khỏi bàn cũng
đã quá rõ.
Lê
Lai là con của Lê Kiều, người thôn Dựng Tú, sách Đức Giang (Thanh Hoá).
Cùng với anh trai là Lê Lạn, Lê Lai đã sát cánh cùng với Lê Lợi ngay
trong những ngày trứng nước của phong trào Lam Sơn, và từng có mặt trong
hội thề Lũng Nhai lịch sử. Gia đình Lê Lai có 5 người cùng tham gia
cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, đó là Lê Lạn, Lê Lai và ba con củ Lê Lai là Lê
Lư, Lê Lộ và Lê Lâm. Ngoại trừ Lê Lâm mất năm 1430 (trong trận đánh nhau
với Ai Lao thời vua Lê Thái Tổ, bốn người còn lại đều anh dũng ngã
xuống trong cuộc chiến đấu chống quân Minh.
Sách Đại Việt thông sử (trang 156 và 157) đã chép về Lê Lai như sau:
“Lê Lai tính cương trực, dung mạo khác thường, chí khí cao cả lẫm liệt,
lo việc hầu cận cho vua Thái Tổ rất chu đáo, công lao rõ rệt. Mùa đông
năm Bính Thân (1416), vua Thái Tổ cùng 18 vị tướng thân cận của nhà vua,
liên danh hội thề, nguyện sống chết có nhau, Ông cũng dự trong số đó,
ông được trao chức Tổng quản phủ Đô tổng quản, tước quan Nội hầu. Năm
Mậu Tuất (1418) lúc vua mới dựng cờ khởi nghĩa, tướng ít, quân thiếu, bị
tướng nhà Minh vây đánh ở Mường Một, Vua chạy thoát, về đóng ở Trịnh
Cao, nơi hẻo lánh, không dân ở. Tướng Minh chia quân chặn những nơi hiểm
yếu, tình thế rất cấp bách, nhà vua hỏi các tướng: “Ai dám đổi áo, thay
ra đem quân ra đánh giặc, xưng danh hiệu của ta, bắt chước như Kỷ Tín
(1) đời Hán, để cho ta có thể dấu tiếng nghi binh, tập hợp tướng sĩ,
mưu tính cuộc nổi dậy về sau”. Các tướng đều không ai dám hưởng ứng.
Riêng Lê Lai đứng dậy nói: “Tôi xin đi. Sau này lấy được nước thì nghĩ
đến công lao của tôi, khiến cho con cháu muôn đời được nhờ ơn nước, đó
là nguyện vọng của tôi”. Nhà vua rất thương cảm. Ông nói: “Bây giờ nguy
khốn thế này, nếu ngồi giữ mảh đất nguy hiểm, vua tôi đều bị tiêu diệt,
sợ sẽ vô ích, nếu theo kế này, may ra có thể thoát được. Kẻ trung thần
chết vì nước nào có tiếc gì”. Nhà vua vái trời mà khấn rằng: “Lê Lai có
công đổi áo, sau này tôi và con cháu tôi, cùng con cháu các tướng tá
công thần, nếu không nhớ đến công lao ấy, thì xin cho cung điện biến
thành rừng núi, ấn báu thành cục đồng, gươm thần biến thành dao cùn”.
Ông bèn dẫn hai con voi và 500 quân kéo thẳng tới trại giặc khiêu chiến.
Giặc dốc hết quân ra đánh, ông cưỡi ngựa tốt, xông thẳng vào giữa trận,
hô to lên rằng: “Chúa Lam Sơn chính là ta đây”., rồi đánh chết được rất
nhiều quân giặc. Khi đã kiệt sức, ông bị địch bắt, xử cực hình “…” Vua
cảm động vì lòng trung nghĩa của ông, trước hết sai người ngầm đi tìm di
hài ông, đem về mai táng ở Lam Sơn. Năm Thuận Thiên thứ nhất (1428),
hong ông là công thần hạng nhất, tặng là “Suy trung Đồng đức Hiệp mưu
Bảo chính Lũng Nhai công thần” hàm thiếu uý, thuỵ là Toàn Nghĩa. Tháng
12 năm sau, nhà vua sai Nguyễn Trãi, viết hai bản lời thề ước trước và
lời thể nhớ công của lê Lai, để vào trong hòm vàng, lại gia phong cho
ông hàm Thái uý. Năm Thái Hoà thứ nhất (1443), ban tặng là Bình Chương
quân quốc trọng sự, ban cho túi kim ngư, ấn vàng (kim phù) tước huyện
thượng hầu. Đầu niên hiệu Hồng Đức (1470), tặng là Diên Phúc hầu, đến
năm thứ 15 (1484), truy tặng là Thái uý Phúc Quốc công, về sau gia phong
là Trung Túc vương”.
Lời bàn:
Vẫn biết lúc xông pha trận mạc, thật khó có thể bảo trọng tấm thân,
nhưng đi vào chỗ mà cái chết chỉ còn cách mình trong gang tấc, cổ kim
nào có được mấy người! Khí phách và lòng trung nghĩa của Lê Lai, khỏi
bàn cũng đã quá rõ. Song, có lẽ cũng chớ nên quên rằng, chỉ có những
người như Lê Lợi mới quy tụ được những người như Lê Lai, và cũng chỉ có
những người như Lê Lai mới dám quả cảm hy sinh thay cho Lê Lợi. Vua ấy,
dũng tướng ấy, cuộc hội ngộ cảm động làm sao.
Ai mà chẳng chết, khác nhau chăng cũng chỉ là, nếu được chọn, người ta nên chết như thế nào đó thôi. Lẫm liệt thay, Lê Lai!
Theo Việt sử giai thoại của Nguyễn Khắc Thuần - NXB Giáo dục
(1)
Kỷ Tín mà Lê Lợi nhắc ở đây vốn là dũng tướng của Lưu Bang. Trong cuộc
đối đầu với Hạng Võ, có lần Lưu Bang bị Hạng Võ bao vây và đánh quyết
liệt ở thành Vinh Dương, tình thế rất nguy cấp. Để cứu Lưu Bang, Kỷ Tín
đã mặc áo Lưu Bang và xông ra đánh nhau với Hạng Võ, tạo điều kiện cho
Lưu Bang rút lui an toàn. Sau Lưu Bang toàn thắng, lên ngôi hoàng đế
(Hán Cao Tổ), khắc ghi cong trạng cho Kỷ Tín.
Tài liệu tham khảo:
1. Từ điển văn hóa Việt nam phần Nhân vật chí-Nhà xuất bản văn hóa thông tin, năm 1993, trang 213
2. Đại cương lịch sử Việt Nam tập 1 (Trương Hữu Quýnh chủ biên)-Nhà xuất bản Giáo dục, 2001, trang 286
đọc xong các bạn đã biết hay chưa thế đừng ném đá nha !
1419, sau thắng lợi của quân ta ở đồng Nga Lạc, địch tập trung lực
lượng hùng hậu để phản công, Nghĩa quân Lam Sơn phải rút về núi Chí Linh
lần thứ hai.Tại đây, quân Minh quyết bao vây tiêu diệt quân khởi nghĩa.
Trước
tình hình đó, Lê Lợi hỏi: “Ai dám đổi áo thay ta bắt chước Kỷ Tín đời
Hán không?”. Các tướng im lặng, Lê Lai đứng dậy nói: “Tôi xin đi, sau
này giành lại giang sơn con cháu tôi muôn đời sẽ được nhờ ơn nước. Đó là
nguyện vọng cuối cùng của tôi”.
Lê Lợi vái trời, khấn: “ Lê Lai có công đổi áo, sau này tôi, con cháu
tôi và con cháu các bậc trung thần nếu không nhớ đến công lao này thì
cung điện biến thành rừng núi, ấn báu biến thành cục đồng, gươm thần
biến thành dao cùn”.
Lê Lai ứa nước mắt vái tạ rồi dẫn 500 quân xông trận và thét lớn: "Chúa
Lam Sơn là ta đây. Ta quyết cùng các ngươi một trận sống mái để thử tài
cao thấp”.
Với khí phách của người anh hùng quyết tử vì đại nghĩa, lưỡi gươm của
Lê Lai và đoàn dũng sĩ vung đến đây, đầu kẻ thù rơi đến đó. Nhưng quân
giặc đông hơn quân ta hàng chục lần nên sau một ngày chiến đấu, Lê Lai
đã rơi vào tay giặc. Tưởng bắt được chủ tướng, chúng hý hửng về Tây Đô,
nhờ thế Lê Lợi thoát vòng vây để tiếp tục giương cao ngọn cờ đại nghĩa.
Biết mắc mưu của nghĩa quân, kẻ thù đã thủ tiêu Lê Lai.
Cảm động trước tấm lòng trung nghĩa của ông, Lê Lợi cho người tìm kiếm
rất công phu vàg đưa thi hài của ông về an táng tại Lam Sơn và ba người
con của ông là Lê Lư, Lê Lô và Lê Lâm được Lê Lợi chăm sóc như con đẻ
của mình.
Vẫn chưa yên tâm với người đã khuất, khi lâm bệnh, ông gọi con trai là
vua Lê Thái Tông (tức Lê Nguyên Long) đến bên giường bệnh và dặn rằng:
Ta biết bệnh ta khó phương cứu chữa, âu cũng là do mệnh trời. Việc chăm
lo trăm họ ta đã nói rõ trong tờ sắc khi giao ngôi báu cho con. Còn điều
này con phải ghi nhớ: Ta sống và có sự nghiệp như ngày nay là nhờ có Lê
Lai, nhưng ngày mất của ông ta không biết. Nếu sau nay các con giỗ ta
ngày nào thì trước ngày đó phải cúng cho Lê Lai”.
Năm hôm sau vua băng hà vào ngày 22-8 năm giáp Dần (1434), thọ 49 tuổi.
Từ đó trở đi ngày 21- 8 âm lịch là ngày giỗ của Lê Lai từ năm 1435 xuất
hiện câu “Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi”.
Lê Lợi, vị anh hùng dân tộc đã nêu cao đạo lý truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”. Tấm gương ấy vạn thuở không mờ.
Lê Lai cứu chúa
Vẫn
biết lúc xông pha trận mạc, thật khó có thể bảo trọng tấm thân, nhưng
đi vào chỗ mà cái chết chỉ còn cách mình trong gang tấc, cổ kim nào có
được mấy người! Khí phách và lòng trung nghĩa của Lê Lai, khỏi bàn cũng
đã quá rõ.
Lê
Lai là con của Lê Kiều, người thôn Dựng Tú, sách Đức Giang (Thanh Hoá).
Cùng với anh trai là Lê Lạn, Lê Lai đã sát cánh cùng với Lê Lợi ngay
trong những ngày trứng nước của phong trào Lam Sơn, và từng có mặt trong
hội thề Lũng Nhai lịch sử. Gia đình Lê Lai có 5 người cùng tham gia
cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, đó là Lê Lạn, Lê Lai và ba con củ Lê Lai là Lê
Lư, Lê Lộ và Lê Lâm. Ngoại trừ Lê Lâm mất năm 1430 (trong trận đánh nhau
với Ai Lao thời vua Lê Thái Tổ, bốn người còn lại đều anh dũng ngã
xuống trong cuộc chiến đấu chống quân Minh.
Sách Đại Việt thông sử (trang 156 và 157) đã chép về Lê Lai như sau:
“Lê Lai tính cương trực, dung mạo khác thường, chí khí cao cả lẫm liệt,
lo việc hầu cận cho vua Thái Tổ rất chu đáo, công lao rõ rệt. Mùa đông
năm Bính Thân (1416), vua Thái Tổ cùng 18 vị tướng thân cận của nhà vua,
liên danh hội thề, nguyện sống chết có nhau, Ông cũng dự trong số đó,
ông được trao chức Tổng quản phủ Đô tổng quản, tước quan Nội hầu. Năm
Mậu Tuất (1418) lúc vua mới dựng cờ khởi nghĩa, tướng ít, quân thiếu, bị
tướng nhà Minh vây đánh ở Mường Một, Vua chạy thoát, về đóng ở Trịnh
Cao, nơi hẻo lánh, không dân ở. Tướng Minh chia quân chặn những nơi hiểm
yếu, tình thế rất cấp bách, nhà vua hỏi các tướng: “Ai dám đổi áo, thay
ra đem quân ra đánh giặc, xưng danh hiệu của ta, bắt chước như Kỷ Tín
(1) đời Hán, để cho ta có thể dấu tiếng nghi binh, tập hợp tướng sĩ,
mưu tính cuộc nổi dậy về sau”. Các tướng đều không ai dám hưởng ứng.
Riêng Lê Lai đứng dậy nói: “Tôi xin đi. Sau này lấy được nước thì nghĩ
đến công lao của tôi, khiến cho con cháu muôn đời được nhờ ơn nước, đó
là nguyện vọng của tôi”. Nhà vua rất thương cảm. Ông nói: “Bây giờ nguy
khốn thế này, nếu ngồi giữ mảh đất nguy hiểm, vua tôi đều bị tiêu diệt,
sợ sẽ vô ích, nếu theo kế này, may ra có thể thoát được. Kẻ trung thần
chết vì nước nào có tiếc gì”. Nhà vua vái trời mà khấn rằng: “Lê Lai có
công đổi áo, sau này tôi và con cháu tôi, cùng con cháu các tướng tá
công thần, nếu không nhớ đến công lao ấy, thì xin cho cung điện biến
thành rừng núi, ấn báu thành cục đồng, gươm thần biến thành dao cùn”.
Ông bèn dẫn hai con voi và 500 quân kéo thẳng tới trại giặc khiêu chiến.
Giặc dốc hết quân ra đánh, ông cưỡi ngựa tốt, xông thẳng vào giữa trận,
hô to lên rằng: “Chúa Lam Sơn chính là ta đây”., rồi đánh chết được rất
nhiều quân giặc. Khi đã kiệt sức, ông bị địch bắt, xử cực hình “…” Vua
cảm động vì lòng trung nghĩa của ông, trước hết sai người ngầm đi tìm di
hài ông, đem về mai táng ở Lam Sơn. Năm Thuận Thiên thứ nhất (1428),
hong ông là công thần hạng nhất, tặng là “Suy trung Đồng đức Hiệp mưu
Bảo chính Lũng Nhai công thần” hàm thiếu uý, thuỵ là Toàn Nghĩa. Tháng
12 năm sau, nhà vua sai Nguyễn Trãi, viết hai bản lời thề ước trước và
lời thể nhớ công của lê Lai, để vào trong hòm vàng, lại gia phong cho
ông hàm Thái uý. Năm Thái Hoà thứ nhất (1443), ban tặng là Bình Chương
quân quốc trọng sự, ban cho túi kim ngư, ấn vàng (kim phù) tước huyện
thượng hầu. Đầu niên hiệu Hồng Đức (1470), tặng là Diên Phúc hầu, đến
năm thứ 15 (1484), truy tặng là Thái uý Phúc Quốc công, về sau gia phong
là Trung Túc vương”.
Lời bàn:
Vẫn biết lúc xông pha trận mạc, thật khó có thể bảo trọng tấm thân,
nhưng đi vào chỗ mà cái chết chỉ còn cách mình trong gang tấc, cổ kim
nào có được mấy người! Khí phách và lòng trung nghĩa của Lê Lai, khỏi
bàn cũng đã quá rõ. Song, có lẽ cũng chớ nên quên rằng, chỉ có những
người như Lê Lợi mới quy tụ được những người như Lê Lai, và cũng chỉ có
những người như Lê Lai mới dám quả cảm hy sinh thay cho Lê Lợi. Vua ấy,
dũng tướng ấy, cuộc hội ngộ cảm động làm sao.
Ai mà chẳng chết, khác nhau chăng cũng chỉ là, nếu được chọn, người ta nên chết như thế nào đó thôi. Lẫm liệt thay, Lê Lai!
Theo Việt sử giai thoại của Nguyễn Khắc Thuần - NXB Giáo dục
(1)
Kỷ Tín mà Lê Lợi nhắc ở đây vốn là dũng tướng của Lưu Bang. Trong cuộc
đối đầu với Hạng Võ, có lần Lưu Bang bị Hạng Võ bao vây và đánh quyết
liệt ở thành Vinh Dương, tình thế rất nguy cấp. Để cứu Lưu Bang, Kỷ Tín
đã mặc áo Lưu Bang và xông ra đánh nhau với Hạng Võ, tạo điều kiện cho
Lưu Bang rút lui an toàn. Sau Lưu Bang toàn thắng, lên ngôi hoàng đế
(Hán Cao Tổ), khắc ghi cong trạng cho Kỷ Tín.
Tài liệu tham khảo:
1. Từ điển văn hóa Việt nam phần Nhân vật chí-Nhà xuất bản văn hóa thông tin, năm 1993, trang 213
2. Đại cương lịch sử Việt Nam tập 1 (Trương Hữu Quýnh chủ biên)-Nhà xuất bản Giáo dục, 2001, trang 286
đọc xong các bạn đã biết hay chưa thế đừng ném đá nha !